Magie - Mg
Ứng dụng
Các hợp chất của magiê, chủ yếu là oxit magie, được sử dụng như là vật liệu chịu lửa trong các lò sản xuất sắt và thép. các kim loại màu, thủy tinh hay xi măng. Ôxít magiê và các hợp chất khác cũng được sử dụng trong nông nghiệp, công nghiệp hóa chất và xây dựng. Nó được sử dụng để tạo các hợp kim nhôm - magiê dùng trong sản xuất vỏ đồ hộp, cũng như trong các thành phần cấu trúc của ô tô và máy móc. Ngoài ra magiê kim loại còn được sử dụng để khử lưu huỳnh từ sắt hay thép.
Các công dụng khác:
-
Magiê, giống như nhôm, là cứng và nhẹ, vì thế nó được sử dụng trong một số các thành phần cấu trúc của các loại xe tải và ô tô dung tích lớn. Đặc biệt, các bánh xe ô tô cấp cao được làm từ hợp kim magiê được gọi là mag wheels (tiếng Anh, nghĩa là bánh xe magiê).
-
Các tấm khắc quang học trong công nghiệp in.
-
Nằm trong hợp kim, nó là quan trọng cho các kết cấu máy bay và tên lửa.
-
Khi pha thêm vào nhôm, nó cải thiện các tính chất cơ-lý, làm nhôm dễ hàn và dễ chế tạo hơn.
-
Là tác nhân bổ sung trong urani các chất nổ thông thường và sử dụng trong sản xuất gang cầu.
-
Là chất khử để sản xuất ur tinh khiết và các kim loại khác từ muối của chúng.
-
Hiđrôxít magiê Mg(OH)2 được sử dụng trong sữa magie, clorua magie và sunfat magie và citrat magie được sử dụng trong y tế.
-
Magnesit quá nhiệt được sử dụng làm vật liệu chịu lửa như gạch.
-
Bột cacbonat magie (MgCO3) được sử dụng bởi các vận động viên điền kinh như các vận động viên thể dục dụng cụ và cử tạ, để cải thiện khả năng nắm chặt dụng cụ.
-
Strearat magie là chất bột màu trắng dễ cháy với các thuộc tính bôi trơn. Trong công nghệ dược phẩm nó được sử dụng trong sản xuất các viên thuốc nén, để ngăn cho các viên nén không bị dính vào thiết bị trong quá trình nén thuốc.
-
Các sử dụng khác bao gồm đèn flash trong nhiếp ảnh, pháo hoa, bao gồm cả bom cháy.
Hợp chất trong cơ thể sống
Magiê hữu cơ là quan trọng cho cả thực vật và động vật. chất diệp lục (Clorôphin) là các porphyrin có magiê ở trung tâm.
Khẩu phần dinh dưỡng của người lớn là 300-400 mg/ngày, phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, trọng lượng.
Nhiều loại enzym cần có cation magiê cho các phản ứng xúc tác của chúng, đặc biệt là các enzym sử dụng ATP. Không đủ magiê trong cơ thể sinh ra các chứng co thắt cơ, và nó liên quan đến các chứng bệnh tim mạch, đái đường, huyết áp cao và loãng xương. Sự thiếu hụt cấp tính là hiếm hơn.
Các nguồn thức ăn
Việc ăn uống nhiều loại thức ăn khác nhau sẽ cung cấp tương đối đầy đủ magiê cho cơ thể.
Magiê trong các loại lương thực, thực phẩm chế biến quá kỹ thông thường bị mất nhiều magiê. Ví dụ, bánh mì trắng thông thường có ít magiê hơn bánh mì đen vì cám và phôi giàu magiê đã bị loại bỏ khi làm trắng bột mì.
Nước có thể cung cấp magiê, nhưng lượng magiê này thường nhỏ và dao động theo nguồn nước. Nước "cứng" chứa nhiều magiê hơn nước "mềm. Các nghiên cứu về dinh dưỡng không tính đến lượng magiê này, và do vậy có thể dẫn đến việc tính không đầy đủ lượng magiê cần thiết cho cơ thể.
Dưới đây là một số loại thức ăn và lượng magiê chúng có:
- Dầu lạc (2 thìa chè) = 50 mg
- Các loại đậu mắt đen (1/2 chén) = 45 mg
- Sữa (1cốc) = 40 mg
Cảnh báo
Magiê kim loại và hợp kim là rất dễ cháy trong dạng nguyên chất và dễ chảy khi ở dạng bột. Magiê phản ứng và giải phóng nhiệt rất nhanh khi tiếp xúc với không khí hay nước, do vậy phải cẩn thận khi làm việc với chúng. Cần phải đeo kính khi làm việc với magiê. Ánh sáng trắng chói lòa của magiê có thể làm tổn thương mắt. Không được dùng nước để dập ngọn lửa cháy do magiê, vì nó làm ngọn lửa cháy to hơn, theo phản ứng sau:
Mg(rắn) + 2H2O(lỏng) → Mg(OH)2(dung dịch) + H2(khí)
Các bình cứu hỏa chứa điôxít cacbon CO2 cũng không được dùng do magiê cháy trong cabon dioxit. Phải dập lửa bằng cát hay các bình cứu hỏa bằng hóa chất khô cấp D (nếu có).
Mức cao nhất theo DRI để hấp thụ magiê là 350 mg/ngày. Triệu chứng chung của thừa magiê là ỉa cháy. Không được cấp cho trẻ em các loại hình thuốc chứa magie.
Tổng hợp từ nhiều nguồn (Tài liệu được thẩm định)